Thuyết minh về Bái Đính- dành cho Hướng dẫn viên du lịch

0
19244

 

Hôm nay, chúng tôi vui mừng được đón đoàn đến tham quan và chiêm bái khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính. Nơi đây, hơn 1000 năm về trước, là nơi đóng đô tạm thời của nhà Đinh trong lúc tiến hành xây dựng kinh đô Hoa Lư và sau đó đóng vai trò là một trong “tứ trấn” của kinh đô Hoa Lư. Cũng nơi đây, dưới thời Lý, Quốc sư Nguyễn Minh Không dựng chùa tu hành, làm thuốc chữa bệnh cứu người, đặc biệt là việc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông.Ta có thể khẳng định nơi đây từ xưa tới nay là một trong những trung tâm Phật giáo (thờ Phật), đạo giáo (thờ thần Cao Sơn), tín ngưỡng thờ Mẫu (mẫu Liễu Hạnh). Để ngày nay, các đền, phủ được phục dựng và ngôi chùa lớn nhất Việt Nam được xây dựng tại đây, với các kỷ lục đã được Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận, đó là:

  1. Chuông đồng lớn nhất Việt Nam, nặng 36 tấn, đường kính 3,5m, cao5,5m;
  2. Pho tượng Đức phật Thích Ca bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam. Tượngcao 9,5m, nặng 100 tấn;
  3. Bộ tượng Tam thế bằng đồng dát vàng lớn nhất Việt Nam. Mỗi tượng nặng 50 tấn, cao 7,5m;
  4. Tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn bằng đồng dát vàng lớn nhất ViệtNam. Tượng nặng 90 tấn, cao 11,45m (tính cả bệ);
  5. Tượng phật Di Lặc bằng đồng lớn nhất Việt Nam. Tượng nặng 80 tấn, cao10m;
  6. Tượng ông Thiện và ông Ác bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam. Mỗitượng nặng 20 tấn, cao 5,2m;
  7. Bộ tượng A Na – Ca Diếp bằng đồng lớn nhất Việt Nam. Mỗi tượng nặng30 tấn, cao 9m;
  8. Bộ tượng Bát bộ Kim cang bằng đồng nặng nhất Việt Nam. Mỗi tượngnặng 4 tấn, cao 3,95m;1 9. Cặp hạc bằng đồng lớn nhất Việt Nam;
  9. Chùa có Hành Lang La Hán lớn nhất Việt Nam. La Hán đường gồm haidãy, mỗi dãy 117 gian, dài 526m;
  10. Chùa có Giếng Ngọc lớn nhất Việt Nam, đường kính 30m, chiều sâu10m;12. Chùa có nhiều cây Bồ Đề nhất Việt Nam. Riêng ngày Đại lễ Phật đảnLiên hiệp quốc tại Việt Nam (17/5/2008), trồng 100 cây bồ đề, triết từ gốc bồ đềẤn Độ.13. Đại lễ cung ngênh sá lợi phật lớn nhất Việt Nam. Hơn 15.000 ngườitham gia và trên 1.000 xe tham gia lễ rước;Ngoài ra, còn có nhiều hạng mục công trình khác cũng rất hoành tráng, côngphu, ấn tượng như: La Hán đường với 500 vị La Hán được tạc bằng đá xanhnguyên khối, tháp bồ đề 9 tầng, hồ phóng sinh rộng gần 5000m2…

    GIỚI THIỆU VÀI NÉT VỀ NÚI BÁI ĐÍNH

  11. Về vị trí địa lý:

Núi Bái Đính nằm trên địa bàn xã Gia Sinh, huyện GiaViễn, tỉnh Ninh Bình, cách Cố đô Hoa Lư 3km, cách thành phố Ninh Bình 12km(theo đường chim bay) về phía Tây. Núi có độ cao 187m so với mặt nước  biển, diện tích khoảng gần 600 ha. Phong thủy có núi, sông, hồ nước, núi có hình tay ngai

.2. Về không gian tự nhiên: núi Bái Đính là điểm khởi đầu ở phía Tây Bắccủa sơn hệ đá vôi Hoa Lư, nằm trọn trong tứ giác nước được giới hạn bởi 4 consông: sông Hoàng Long, sông Đáy, sông Vân, sông Bến Đang. Sơn hệ đá vôi HoaLư có diện tích hàng nghìn ha, có những di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nổitiếng như Cố đô Hoa Lư, khu du lịch Tràng An, khu du lịch Tam Cốc – BíchĐộng… Các ngọn núi trong sơn hệ có độ cao trung bình từ 70-170m. Với độ cao187m, có thể nói, núi Bái Đính là ngọn núi cao nhất vùng, là núi chủ/ núi chúa củasơn hệ đá vôi Hoa Lư.

  1. Nếu đặt sơn hệ đá vôi Hoa Lư trong không gian sông núi Việt Nam, thìnơi đây là sự kéo dài và phân tán của khối núi đồ sộ phía Tây Bắc và cũng là phầnchân của dãy Hymalaya, nơi khởi nguồn của đạo Phật4. Nếu lấy trục Việt Trì – Hà Nội là trục trung tâm của tam giác châu thổ sông Hồng, thì phía Đông Bắc có cánh cung đá vôi Đông Bắc, nổi bật là non thiêng Yên Tử, nơi các vua Trần đặt nền móng phái Mật tông, là trấn ải phía biên giới đông bắc, còn phía Tây Nam, như để cho cân xứng, tạo hóa đã tạo ra sơn hệ đá vôi Hoa Lư, nổi bật là núi thiêng Bái Đính, nơi Quốc sư Nguyễn Minh Không (thời Lý) đã chọn để tu hành và truyền đạo, nơi đây cũng được coi là trấn ải cho kinh đôThăng Long phía tây nam.
  2. Về tên gọi: Núi Bái Đính, theo cách giải thích dân gian có nghĩa là: núi có lễ bái trên đỉnh cao.

PHẦN I: KHU CHÙA BÁI ĐÍNH MỚI

  1. Tam quan.

Tam quan là 3 cửa, theo đạo Phật, đó là Không quan, Trung quan, Giả quan;

Tam Quan- cổng dẫn vào chùa Bái Đính mới

Tam quan cũng có nghĩa là 3 cửa: cửa khổ, cửa vô thường, cửa vô ngã; Khi quý khách bước qua ngưỡng cửa tam quan cũng có nghĩa là quý khách đã bước vào cõi thiêng, vào một thế giới khác tục, một thế giới có nhiều tính thánh thiện, để tìm lẽ cân bằng của cuộc sống. Những tín đồ đến  đây như muốn đem hoà cá thể vào mênh mông, đem hữu hạn hoà vào vô hạn để tìm thấy chính mình

  • Tam quan được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, để xây dựng tam quan, người ta đã sử dụng khoảng 550 tấn gỗ tròn. Tam quan có lối kiến trúc kiểu chồng giường, cao 16,5m, rộng 13m, dài 32m.

Phía trước tam quan, hai bên tả hữu có hai con sư tử bằng đá, là biểu hiện sức mạnh của trí tuệ. Trong trường hợp đặt trước Tam quan nó còn mang ý nghĩa kiểm soát tâm hồn kẻ hành hương.

Vào Tam quan, theo hướng nhìn của khách từ ngoài vào trong, bên phải có đặt tượng thần Khuyến thiện, tay cầm viên ngọc, biểu tượng cho đạo pháp; bên trái là tượng thần Trừng ác, tay cầm kiếm. Cả hai vị thần đều ngồi trên con sư tử, mang ý nghĩa: lấy nền tảng của trí tuệ để hành đạo, hướng con người tới chân – thiện – mỹ.

Bên trên tam quan có hình tượng bánh xe luân hồi, được chạm thông phong, biểu tượng sự chuyển vần không ngừng của phật pháp, của trời đất. Ở giữa có chữ Vạn, tượng trưng của ngọn lửa tam muội (lửa thiêng). Chữ Vạn còn tượng trưng cho trí tuệ và lòng từ bi, quảng đại của đức Phật. Chữ Vạn mở rộng ra hai bên biểu

thị sự vận động vô hạn của Phật lực, kéo dài tới 4 phương, mở rộng vô cùng tận. 3 Từ Tam quan, chúng ta đi theo hành lang phía tay  phải.Tại sao chúng ta lại vào phía bên phải mà không phải bên trái trước?

Theo quan niệm của đạo Phật, vào chùa chúng ta vào từ bên phải của khách(tức bên trái của chùa) có nghĩa là đi theo chiều quay của chữ Vạn, cũng là đi từ dương sang âm để làm tịnh tiến thiện căn.

  1. Hành lang (La Hán Đường)

Hành lang được thiết kế hoàn toàn bằng gỗ, các vì kèo mái được kết cấu kiểu giá chiêng chồng giường con nhị. Dọc hai hành lang tả, hữu đặt 500 pho tương La Hán, chất liệu bằng đá, do các nghệ nhân làng nghề đá Ninh Vân( Hoa Lư) chế tác. Vì vậy hành lang còn gọi là La Hán Đường. La Hán Đường gồm hai dãy, mỗi dãy 117 gian, dài 526m. Người ta đã sử dụng khoảng 3500m.

Hình ảnh có liên quan
Hành lang

Gỗ để xây La Hán Đường

La Hán là các đệ tử của Phật Thích Ca, họ chưa thành Phật nên gọi là La Hán. Vì vậy chúng ta thấy, La Hán đường chỉ được sắp đặt từ tam quan đến gần điện Pháp chủ, đây cũng là con đường tượng trưng cho con đường đến với cõi Phật. Mỗi vị La Hán đều có tên và ý nghĩa riêng.

Tại sao các vị La Hán lại được thờ ở hành lang?

Vì ở vị trí này, họ thường xuyên gần gữi, giáo dưỡng, dìu dắt chúng sinh. Trên con đường này, nếu để ý hai bên, chúng ta thấy rất nhiều những cây mít được trồng. Tại sao vậy? Trong đạo Phật mít là Paramita. Âm Hán Việt là Ba-la-mật-đa, nghĩa là đáo bỉ ngạn(đến bờ giác ngộ). Ý nghĩa của cây mít là đại giác ngộ, đỉnh cao của giải thoát. Vì thế, cây mít là cây thiêng, gắn với Phật đạo(gỗ mít dùng làm mõ chùa, làm tượng Phật, lá mít dùng đặt oản lễ Phật…). Thực ra, mít nó không mang yếu tố đơn thuần là chất liệu với những gân xoắn biểu hiện nghệ thuật, cao hơn, nó biểu hiện miền đất thoát tục.

 3.Gác chuông

– giới thiệu về kiến trúc: Gác chuông kiến trức hình bát giác, có 3 tầng mái cong, chiều cao 18,25m, đường kính 17m, mang dáng dấp của bông sen. Gác chuông có một lối lên và một lối xuống. Để lên gác chuông, mời quý khahcs lên phía cầu thang bên phải(theo lối nhìn của khách từ tam quan vào).

– giới thiệu về quả chuông: Đây là quả chuông đồng nặng 36 tấn, do các nghệ nhân ở Huế đúc. Qủa chuông này đã được trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là quả chuông bằng đồng lớn nhất Việt Nam.

Như quý khách có thể thấy, quả chuông có 15 vành hoa văn. Tính từ trên xuống, các vành hoa văn được trang trí như sau:

Vành hoa văn 1, 2, 3, 4, 5, 10, 13: khắc chữ Hán.

Vành hoa văn 6 trang trí hoa văn lá đề cách điệu.

Vành hoa văn 7 là vành hoa văn ở giữa, rộng nhất, trang trí các bài minh văn bằng chữ Hán.

Vành hoa văn 8, 14 trang trí hoa văn cúc dây.

Vành hoa văn 9 trang trí hình ảnh lưỡng long chầu quả lôi đang bốc lửa và các chữ Hán.

Xin nói thêm về hình ảnh quả lôi đang bốc lửa: Về ý nghĩa văn hoá tâm linh, hình tượng rồng chầu “quả lôi” biểu hiện ý thức cầu nguồn nước, cầu mưa. Đối với cư dân nông nghiệp, cầu nguồn nước chính là cầu no đủ, hạnh phúc.

Vành hoa văn 11, 12 trang trí hoa văn chữ “Vạn” cách điệu, giữa hai vành này, ở bốn phía là các rốn chuông.

Vành hoa văn 15 (vành cuối cùng) trang trí hoa văn sóng nước. Các hoa văn này được thiết kế mang phong cách thời Lý.

Theo quan niệm của nhà Phật, tiếng chuông khi gõ vào sáng sớm là cảnh tỉnh, buổi chiều là thu không. Mỗi khi tiếng chuông vang lên, mọi thế giới hành tội nghỉ ngơi, những kẻ tội lỗi khi nghe tiếng chuông thì tội lỗi cũng sẽ được tiêu tan. Với quan niệm, tiếng chuông chùa càng ngân xa bao nhiêu, càng xua nỗi khổ của chúng sinh đi bấy nhiêu, vì vậy, gác chuông của chùa được đưa lên rất cao. Khi những hồi chuông được gióng lên, thì ở cách xa hàng chục km vẫn có thể nghe thấu.

Với phật tử, nghe tiếng chuông buổi sớm như nhắc nhở nghiệp bồ tát vị tha; tiếng chuông chiều: diệt trừ sầu não. Tiếng chuông cũng như thúc đẩy cho muôn loài sinh sôi, vì toà nhà đó mang yếu tố dịch học. Cả toà nhà coi như thái cực. Mái trên nhẹ (+), mái dưới nặng (-). Âm dương đối đãi, vạn vật sinh sôi, nảy nở.

Như quý khách có thể thấy, chày kình để đánh được quả chuông này cũng rất lớn. Chày kình bằng gỗ có chiều dài khoảng 5m, đường kính 30cm, nặng gần 500kg (5 tạ).

  1. Điện Quan Thế âm Bồ tát.

– Giới thiệu về kiến trúc: Đây là công trình được làm hoàn toàn bằng gỗ, khoảng 900m

3 gỗ tròn đã được sử dụng làm công trình này. Điện thờ gồm 7 gian, chiều cao 14,8m, chiều rộng 16,8m, chiều dài 40,4m.

Giới thiệu về pho tượng Quan Thế âm Bồ tát: Đây là pho tượng đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là tượng Quan Thế âm bằng đồng lớn nhất Việt Nam. Tượng cao 5,4m, nếu tính cả bệ tượng là 9,57m; nặng 80 tấn, nếu tính cả bệ tượng là khoảng 100 tấn.

Như chúng ta đã biết, Quan âm là vị phật đại diện cho tứ đại vô lượng tâm:đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, vì vậy, ở bất kể đâu, phật Quan âm cũng luôn tượng trưng cho sự từ bi, cứu khổ, cứu nạn mọi chúng sinh. Pho tượng tại đây là hình ảnh tượng Quan âm thiên thủ thiên nhãn (tức là Quan âm nghìn tay nghìn mắt). Theo truyền thuyết, bà là con gái vua Thủy Tề, bỏ mặc giàu sang phú quý đi tu Phật, bà hy sinh cả đôi tay, đôi mắt của mình để chữa bệnh cho chúng sinh. Vì thế Phật cho bà tăng lên nghìn con mắt, nghìn bàn tay để bà làm được nhiều việc công ích và nhìn, thấu hiểu nỗi khổ của chúng sinh nghìn lần hơn nữa.

Như chúng ta thấy, tượng Quan âm ở đây được thể hiện có 3 khuôn mặt chồng lên nhau, tương truyền, bà suy nghĩ về chúng sinh nhiều quá nên đầu vỡ làm 3; cũng có người giải thích đó là tam giáo đồng tôn: nho – đạo – phật. Tượng có 5 đôi tay lớn, mỗi đôi tay thể hiện một cách kết ấn khác nhau, có đôi tay kết ấn Thiền định, có đôi tay kết ấn Liên hoa… nhưng dù là cách kết ấn nào thì cũng thể hiện lòng từ bi, bác ái của Quan âm bồ tát, của đạo Phật đối với chúng sinh.

Điều đặc biệt là tượng Quan âm được tạc ngồi trên đài sen, có quỷ đội. Như vậy, chúng ta có thể hiểu đây cũng là hình ảnh của tượng Quan Âm Nam Hải. Sở dĩ gọi là Quan Âm Nam Hải là vì ở biển phương Nam. Và con quỷ đội đài sen ấy có tên là Ô-ba-nan-đà long vương (gọi tắt là Nan đà long vương).

Hình tượng quỷ đội đài sen biểu hiện rằng, uy lực của phật pháp đã thấm nhuần tới cả cõi âm ti.

  1. Điện Pháp chủ.

– Giới thiệu về hồ phóng sinh: Trước cửa điện Pháp chủ là hồ phóng sinh, diện tích khoảng 5000m. Xung quanh hồ trồng nhiều cây bồ đề. Đây là những cây do các đồng chí lãnh đạo, các nguyên thủ quốc gia đã trồng khi về thăm chùa.

(Có thể giới thiệu thêm về cây bồ đề (âm Hán Việt là Bu – đa) nghĩa là người giác ngộ. Cây bồ đề là cây thiêng gắn với đạo Phật, mang yếu tố giác ngộ nên nó được đặt ở phía ngoài. Với chúng ta hiểu, bồ đề là giác ngộ trên nền tảng trí tuệ hướng đến điều thiện. Vì vậy, cây bồ đề trồng phía ngoài, nhắc nhở phật tử phải dẹp lòng trần, khởi lòng tĩnh, hướng đến đất Phật).

  1. Điện Tam thế.

– Giới thiệu về vị trí phong thủy của khu chùa Bái Đính (Tại sân điện Tam thế, vì ở vị trí này khách có thể nhìn bao quát toàn cảnh). Từ sân điện Tam thế nhìn về phía Tam quan:

+ Bên hữu (phải) có dãy núi Hàm Rồng, núi Hàm Xà.

+ Bên tả (trái) có núi Lê, núi Khám, núi U Bò, núi Ba Chạc, núi Thờ.

+ Phía trước chính diện có hồ Đàm Thị, xa hơn là núi Hàn Cay, tựa bức bình phong của khu chùa, xa hơn nữa là dòng Hoàng Long đầy ắp huyện thoại. Chúng ta có thể thấy, phía trước khu chùa là một bức tranh sơn thủy hữu tình, âm dương đối đãi. Có thể nói thêm phía bên kia bờ Hoàng Long là quê hương của vua Đinh Tiên Hoàng, cũng là quê hương của Quốc sư Nguyễn Minh Không, người có công đầu xây dựng ngôi chùa Bái Đính cổ.

+ Phía sau là núi Bái Đính, nơi có ngôi chùa cổ.

Giới thiệu về kiến trúc: Điện Tam thế được xây dựng với kiến trúc 3 tầng mái, gồm 7 gian, 2 chái, với tổng cộng 66 cột lớn nhỏ đúc bê tông, ốp gỗ. Phật điện cao 34m, dài 59,10m, rộng 40,50m, diện tích lòng điện 2364m

Con đường nhất chính đạo từ Tam quan đến điện Tam thế dài 812m.Bức phù điêu đá (trước thềm tòa Tam thế) có kích thước 10m x 10m, được chạm khắc tứ linh: long, ly, quy, phượng.

Giới thiệu về bộ tượng Tam thế: Đây là bộ tượng đồng, do các nghệ nhân đúc đồng ở Ý Yên (Nam Định) chế tác. Bộ tượng đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là bộ tượng Tam thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam.

Kết quả hình ảnh cho điện tam thế ở bái đính

Mỗi pho tượng cao 7,20m, nặng 50 tấn, đặt trên bệ đá cao 1,5m. Tam thế có nghĩa là 3 thời: quá khứ, hiện tại, tương lai. Tên đầy đủ của bộ tượng này trong đạo Phật là Tam thế thường trụ diệu pháp thân, có nghĩa là Phật luôn tồn tại kỳ diệu khắp mọi nơi, mọi lúc. Ý nghĩa của bộ tượng này là các vị Phật của các thời luôn nối tiếp nhau để giáo hóa chúng sinh. Các vị Phật có kích thước và hình dáng giống nhau, đều ngồi thế tọa thiền kiết già toàn phần (yoga)

Vị Phật ngồi giữa là tượng hiện tại thế, còn gọi là Hiền kiếp. Vị phật này thể hiện cách kết ấn Thiền định với ý nghĩa giữ cho tâm thanh, lòng tĩnh, chống lại mọi tà loạn.

Vị Phật ngồi bên trái (theo hướng nhìn của khách từ ngoài vào) là tượng quá khứ thế, còn gọi là Trang nghiêm kiếp. Vị phật này thể hiện cách kết ấn Thuyết pháp với ý nghĩa dùng đạo Phật để giáo hóa chúng sinh.

Vị Phật ngồi bên phải là tượng vị lai thế, còn gọi là Tinh tú kiếp. Vị phật này thể hiện cách kết ấn Vô úy với ý nghĩa diệt mọi trừ tà ma, tội lỗi.

  1. Một số công trình khác (sẽ được xây dựng trong tương lai gần, như thảo

viên, khu bảo tàng Phật giáo, nhà thờ Mẫu, khu tháp, nhà thờ Tổ…). Đây cũng là

những công trình có kiến trúc đồ sộ, hoành tráng, tạo nên một quần thể chùa Bái

Đính ấn tượng, độc nhất vô nhị của Việt Nam.

PHẦN II: CHÙA BÁI ĐÍNH CỔ

  1. Giới thiệu chung.

Như đã giới thiệu ở phần trước, các quý khách đang bước chân trên mảnh đất có bề dày lịch sử hàng ngàn năm, văn hóa, tín ngưỡng. Bản thân khu vực núi chùa Bái Đính đóng vai trò là vùng giao thoa giữa văn hóa sông Hồng ở phía Bắc và văn hóa sông Mã ở phía Nam, là cửa ngõ từ rừng xuống biển, là một điểm trên con đường sinh dưỡng, giao lưu bằng đường bộ theo hướng Bắc – Nam của người Tiền sử. Điều này được chứng minh qua các di chỉ khảo cổ học ở núi Thung Bình, hang Bói, hang Trống… (những di chỉ thời đại đồ đá nằm ở phía Đông Nam núi Bái Đính), qua những di chỉ thời đại đồ đồng: núi Ốp, núi Xưa, đồi Đống (phía Tây Bắc núi Bái Đính)… Đó là nền cơ sở vật chất của nền văn minh Đông Sơn, thời đại các vua Hùng, gắn liền với những truyền thuyết, huyền thoại về nhân vật thần núi Thánh Tản Viên, nhân vật này cũng được thờ tại đây.

Kết quả hình ảnh cho chùa bái đính cổ

Và khu vực núi Bái Đính cũng nằm trên dòng chảy của tín ngưỡng thờ Mẫu (một tín nhưỡng bản địa của dân tộc), từ đền Sòng, phố Cát (Thanh Hóa) đến phủ Đồi Ngang (Nho Quan – Ninh Bình) qua núi Bái Đính, ở đây ngoài động thờ Phật, đền thờ thánh Cao Sơn còn có phủ thờ Mẫu, để rồi từ đây, dòng chảy tiếp tục về núi Gôi (Nam Định) gắn liền với nhân vật mẫu Liễu Hạnh ba lần sinh, ba lần hóa.Và cũng chính vì thế, nhân ngày hội chùa Bái Đính (ngày mồng 6 tháng Giêng) vào các năm 1943, 1944 có hàng nghìn Phật tử; tín đồ của Mẫu, của Thánh đến tham dự, lợi dụng thời điểm tập trung đông người này các chiến sỹ Cộng sản.

 

Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh cách điện Tam Thế của khu chùa mới khoảng 800 m về phía nam. Chùa Bái Đính cổ tọa lạc trên một ngọn núi cao 187m, thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Nơi có nhiều giai thoại về Đức Thánh Nguyễn Minh Không, người đã lập nên vào triều Lý khi Ngài về đây tìm cây thuốc quý chữa bệnh cho vua. Vì vậy chùa Bái Đính cổ có nhiều chi tiết kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của thời Lý.

Gần 1000 năm trôi qua, ngôi chùa Bái Đính cổ vẫn còn đó như một minh chứng cho sức sống bền bỉ của đạo Phật trong đời sống tâm linh của người Việt. Các hạng mục chính của chùa Bái Đính cổ gồm: động thờ Phật, động thờ Mẫu, điện thờ Đức Thánh Nguyễn Minh Không và điện thờ Đức Thánh Cao Sơn.
Bái Đính cổ tự không có những mái chùa cong vút mái đao hay mũi hài, càng không có những trụ cột to lớn, đồ sộ hay thượng điện nguy nga lộng lẫy. Mà được tạo dựng theo lối kiến trúc chùa động khá phổ biến như các chùa cổ khác ở Ninh Bình.
Tất cả các ban thờ Phật, thờ Mẫu của chùa Bái Đính cổ đều được đặt giữa lòng những sơn động u minh, làm tăng thêm không khí linh thiêng và huyền bí nơi cửa thiền. Trần hang động đã trở thành những mái chùa kiên cố, che chắn chốn thiêng ngự trị của Phật, của Mẫu đã hàng bao thế kỷ nay.
Muốn lên thăm hang động ở núi Bái Đính các du khách phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng Tam Quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba là đền thờ Thánh Nguyễn, bên phải là hang sáng thờ Phật, bên trái là động tối thờ Mẫu. Mỗi một hang động đều có một sự tích và huyền thoại riêng tạo nên những nét kỳ bí và linh thiêng nơi cửa thiền.

Thiền sư Nguyễn Minh Không và Đền thờ thánh Nguyễn 
Lý Quốc Sư hay thiền sư Nguyễn Minh Không là một nhà sư tài danh, sinh ra tại huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Ông được coi là thần y khi đã chữa bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông, từ đó trở thành vị cao tăng đứng đầu của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cũng là người đầu tiên áp dụng phương pháp chữa bệnh bằng thuốc Nam và châm cứu, là người có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân.
Tương truyền rằng, khi ông đi tới vùng đất núi chùa Bái Đính hiện nay, vùng đất “địa linh nhân kiệt”, Ông nhận ra đây là nơi tiên cảnh, với thế núi hướng về phía Tây như chầu về đất Phật, rừng núi mênh mông với muôn vàn cây thuốc quý. Ông quyết định dừng lại nơi đây để tu hành và đặt tên cho núi là Bái Đính sau đó biến nơi đây thành “vườn sinh dược” (có nghĩa là vườn thuốc quý) để cứu sinh độ thế cho muôn dân. Ông là người trực tiếp bốc thuốc chữa bệnh cho chúng sinh nhờ vào những loại thuốc quý có sẵn nơi đây và một số loại ông đưa từ nơi khác về trồng. Đền thánh Nguyễn được đặt nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng.

  Động thờ Phật
Động thờ Phật có chiều dài 25m cao 2m. Trong một lần vua Lê Thánh Tông kinh lý phương Nam, ngài đã thăm và ban tặng chùa Bái Đính bốn chữ “Minh Đỉnh Danh Lam” trên cửa động, nhằm miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp và sự linh thiêng của núi rừng nơi đây. Trước cửa động thờ 2 pho tượng Hộ pháp bằng đồng là ngài Khuyến Thiện và Trừng Ác.
Trong động thờ Phật còn thờ Đức chúa ông, tức là Trưởng giả Tu Đạt hay còn gọi là ông Cấp Cô Độc. Ông là một vị Trưởng giả ở đất nước Ấn Độ cổ, sinh cùng thời với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là đệ tử tu tại gia và hộ pháp đắc lực của Đức Phật. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni chứng đắc đạo quả dưới gốc cây Bồ đề, Trưởng giả Tu Đạt và Thái tử Kỳ Đà đã cùng nhau xây dựng một Tịnh Xá dâng lên Đức Phật để ngài làm nơi thuyết pháp, độ sinh. Sau này khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn, thì nơi này đã làm nơi thờ Phật và đó được coi là ngôi chùa đầu tiên.

Trong động chính là thờ ngôi Tam Bảo – ba ngôi báu, bao gồm: Phật Bảo là chỉ cho 10 phương ba đời các Đức Phật, Pháp Bảo là chỉ cho kinh điển, giới luật, giáo lý… của nhà Phật; Tăng Bảo là chỉ cho những người xuất gia tu hành tu theo giới luật của Phật và truyền trì chính pháp.

Động thờ Mẫu.
Đối diện với động thờ Phật là động thờ Mẫu. Bên trái cửa động treo quả chuông nặng 300kg và có khắc 8 chữ là: “Mẫu – Nghi – Thiên – Hạ / Xuân – Hạ – Thu – Đông”.

Hình ảnh có liên quan

Cũng như các ngôi chùa khác ở Việt Nam, chùa Bái Đính có tín ngưỡng thờ Tam tòa Thánh Mẫu, hướng đến cuộc sống thực tại của con người với ước vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn… Trong đó, Mẫu Thoải là Mẫu đệ tam cai quản vùng sông nước, thường được khoác trên người màu áo trắng; Mẫu Thượng Ngàn là Mẫu đệ nhị người cai quản vùng núi rừng nên khoác trên người màu áo xanh; Mẫu Liễu Hạnh là mẫu đệ nhất, khoác trên người màu áo đỏ – màu của sinh lực, màu của sự hy sinh, biểu tượng cho sự hy sinh của những người mẹ.
Hầu cận Mẫu là đôi Kim Đồng, Ngọc Nữ cùng với Ngũ vị tiên quan, tức là năm vị quan tối cao thi hành các nhiệm vụ của Mẫu khi mẫu ban lệnh.
     
Đền Thánh Cao Sơn 

Đi sâu qua động thờ Thánh Mẫu có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây sưa là đền thờ thần Cao Sơn, vị thần cai quản vùng núi Vũ Lâm. Ngôi đền thần Cao Sơn hiện tại được tu tạo có kiến trúc gần giống với đền Thánh Nguyễn, cũng xây tựa lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền thuyết Thánh Cao Sơn là một vị tướng của Vua Hùng (Tản Viên là anh cả, Cao Sơn là anh thứ hai, Quý Minh Đại Vương là thứ ba). Tương truyền rằng, lệnh bài người cầm trước ngực là do vua Hùng ban cho những cánh quân đi về núi Bái Đính để trấn giữ 99 ngọn núi

Đặc biệt từ cửa hang sáng nhìn ra phía trước là thung lũng xanh ngút ngàn, tức cảnh sinh tình, có truyền thuyết kể lại rằng, khi vua Lê Thánh Tông lên vãn cảnh chùa trên đỉnh Bái Đính vua đã tạc một bài thơ trên núi đá ca ngợi vẻ đẹp nơi đây, hiện vẫn còn lưu giữ tới ngày nay. Bài thơ có câu dịch:

Đính sơn danh tiếng thật cao xa
Che chở kinh thành tự thửa xưa
Nhân kiệt địa linh nên vượng khí
Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà

xem thêm: Những bài thuyết minh hay dành cho Hướng dẫn viên.

ĐĂNG KÝ HỌC NGHIỆP VỤ HDV- ĐỔI THẺ QUỐC TẾ & NỘI ĐỊA

  • đăng ký gọi ngay : 038 6875 702 – 033 448 1721  mail: thuongpn@duyenhai.edu.vn

BÌNH LUẬN